Gen Vị Kỷ (The Selfish Gene)
Tác giả: Richard Dawkins; Dịch giả: Dương Ngọc Cường, Hồ Tú Cường
Tiến hóa được thúc đẩy bởi những khác biệt trong khả năng và nguồn tài nguyên hạn chế
Hơn 3,5 tỷ năm trước đây, trong nồi súp nguyên thủy của các phân tử, dạng sống đầu tiên và đơn giản nhất trên trái đất đã thành hình: một phân tử có khả năng sao chép chính nó, một thể tự sao (replicator).
Các thể tự sao dạng phân tử được tạo thành từ các chuỗi dài những thành phần phân tử xây dựng nhỏ hơn tương tự như một từ được tạo thành từ một chuỗi các chữ cái. Các thể tự sao tự nhân lên bằng cách thu hút 'chữ cái' khác và hoạt động như một khuôn mẫu để các "chữ cái" đó khớp vào.
Thể tự sao đầu tiên hiển nhiên đã có một lợi thế cạnh tranh so với tất cả các phân tử khác trong nồi súp nguyên thủy vì các phân tử khác đó không thể tự sao chép bản thân lên được, do đó thể tự sao trở nên có số lượng nhiều hơn so với bất kỳ loại phân tử nào khác.
Tuy nhiên, những sai lầm trong quá trình sao chép đã tạo ra các thể tự sao "con" có cấu hình hơi khác so với "cha mẹ". Các cấu hình mới này có nghĩa là một số thể tự sao "con" có thể tự sao chép nhanh hơn, hoặc chính xác hơn, mang lại cho chúng một lợi thế cạnh tranh so với "cha mẹ" chúng.
Ngày càng có nhiều thể tự sao được tạo nên từ nguồn cung hữu hạn các phân tử xây dựng trong nồi súp nguyên thủy đó, và dần dẫn những phân tử này bị sử dụng hết.
Hai khái niệm này - một quần thể có những khả năng khác nhau và một môi trường tài nguyên giới hạn - là những yêu cầu cơ bản cho quá trình mà chúng ta gọi là tiến hóa.
Thời gian trôi qua, những sai lầm khác trong việc sao chép dẫn đến đặc điểm lợi thế mới, chẳng hạn như khả năng phá vỡ các thể tự sao khác và sử dụng các khối xây dựng của chúng để nhân lên: các loài ăn thịt đầu tiên. Thông qua việc tạo ra các biến thể mới, và sự sống còn của những thể tự sao với những ưu điểm hữu ích nhất, các dạng sống phức tạp hơn xuất hiện, cuối cùng dẫn đến sự đa dạng sinh vật mà chúng ta thấy ngày nay.
Đơn vị cơ bản của tiến hóa là gen, bởi vì nó có thể tồn tại ở nhiều bản sao và do đó gần như là bất tử
Sự tiến hóa xảy ra thông qua khả năng sinh tồn khác biệt: trong một quần thể có những thực thể có khả năng khác nhau, một số tồn tại và nhân rộng lên được trong khi những kẻ khác diệt vong.
Nhưng trái với những gì thường nghĩ, đơn vị cơ bản chịu tác động của tiến hóa không phải là những sinh vật đơn lẻ, mà là các gen, những đoạn DNA ngắn; những phân tử tự sao này (DNA) là cơ sở của mọi sự sống trên Trái đất.
Lý do cho điều này là gen thỏa mãn một tiêu chí quan trọng mà những sinh vật riêng lẻ không có: các gen là không phải là duy nhất và có thể tồn tại ở nhiều bản sao ở nhiều cơ thể khác nhau. Ví dụ, tất cả những người mắt xanh đều có một bản sao của gen quy định mắt màu xanh trong tế bào.
Mặt khác, hầu hết các sinh vật không thể tự nhân lên thành những bản sao giống hệt nhau. Điều này là do sinh sản hữu tính không tạo ra các bản sao mà thay vào đó kết hợp đặc điểm di truyền của bố và mẹ để tạo ra các cá thể mới, độc nhất.
Việc các gen tồn tại dưới dạng các bản sao làm cho chúng gần như bất tử. Trong khi các sinh vật đơn lẻ có xu hướng tồn tại không quá một vài thập kỷ, các gen có thể sống hàng ngàn hoặc thậm chí hàng triệu năm. Hãy xem xét rằng thực tế là trong khi tổ tiên của bạn đã chết từ lâu, nhưng chắc chắn là bạn đang mang nhiều gen của tổ tiên trong các tế bào của mình và đến lượt bạn sẽ truyền nhiều gen cho con cháu.
Chính số lượng lớn và tiềm năng bất tử của gen khiến chúng là đối tượng cho những tác động của tiến hóa.
Các gen là vị kỷ theo định nghĩa: thành công sinh tồn của chúng đi kèm với cái giá của những gen khác
Một gen là 'vị kỷ': nó hoạt động theo cách thúc đẩy sự tồn tại của chính mình với cái giá của các thực thể cạnh tranh khác. Tuy nhiên, các gen tự nó không có ý thức về động cơ; chúng ta chỉ mô tả hành vi của chúng là có vẻ vị kỷ mà thôi. Tương tự như vậy, trong khi quá trình tiến hóa có vẻ như là được thúc đẩy theo hướng tạo ra các thực thể thích nghi được với những môi trường cụ thể, nhưng tự quá trình này (tiến hóa) không cố gắng một cách có ý thức để đạt được điều này.
Để hiểu tại sao gen dường như vị kỷ, chúng ta phải xem xét các môi trường vật lý nơi chúng tồn tại: Gen tồn tại trong những gói gọi là gọi là nhiễm sắc thể, được che chở trong các tế bào tạo nên sinh vật. Nhiễm sắc thể đi theo cặp: con người có 23 cặp (tổng số là 46 nhiễm sắc thể). Cả hai nhiễm sắc thể trong một cặp có cơ cấu tổ chức tương tự, vì vậy nếu một khu vực trên một nhiễm sắc thể chứa gen màu mắt, thì nhiễm sắc thể còn lại kia cũng có một gen cho màu mắt ở cùng một vị trí. Tuy nhiên, các phiên bản của gen này có thể không giống nhau: một phiên bản có thể cho đôi mắt màu xanh và một cho mắt màu nâu. Các phiên bản khác nhau của gen cho cùng một tính trạng được gọi là alen; ví dụ, gen quy định mắt màu có nhiều alen khác nhau.
Bởi vì các alen khác nhau cố gắng chiếm giữ chính xác cùng một vị trí trên nhiễm sắc thể nên bất cứ lợi thế sinh tồn nào mà một alen có được đều là vị kỷ: nó làm giảm triển vọng sinh tồn của các alen khác.
Kiểu hình của một gen - cách gen mã hóa được thể hiện trong môi trường - quyết định sự tồn tại của nó
Bề ngoài tất cả các gen là khá giống nhau: chúng đều là những đoạn DNA. Chúng khác nhau ở chỗ thông tin mà chúng mã hóa.
DNA về cơ bản là một chuỗi phân tử dài cấu thành từ bốn loại phân tử ký hiệu bằng các chữ cái A, T, C và G. Cũng như mỗi từ trong tiếng Anh đều được xây dựng từ 26 chữ cái trong bảng chữ cái, bốn khối xây dựng cơ bản này có thể được kết hợp thành vô số chuỗi DNA khác nhau và phức tạp nhằm mô tả mọi tính năng của một sinh vật.
Mã này được dịch sang (dịch mã) các hướng dẫn để xây dựng nên một cơ thể sinh vật. Những khác biệt nhỏ trong mã được thể hiện thành các đặc tính như chân dài hơn, là một lợi thế sinh tồn cho, ví dụ, một con linh dương đang chạy trốn khỏi một con báo. Con linh dương chân dài này chạy thoát được và sống được để sinh con đẻ cái mang những bản sao của gen mà mã hóa cho đặc điểm chân dài đó. Do đó, gen này tồn tại được thông qua ảnh hưởng của nó đối với cơ thể của loài linh dương. Sự biểu hiện trên cơ thể của một gen được gọi là kiểu hình của gen đó.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của gen không nhất thiết chỉ giới hạn ở cơ thể mà gen đó thuộc về. Ví dụ, các gen của virus ảnh hưởng tới cả các tế bào của cơ thể mà chúng lây nhiễm; chúng có thể làm cho cơ thể vật chủ hắt hơi, giúp virus lây lan và do đó cho phép các gen của mình tồn tại.
Sự thành công sinh tồn của một gen phụ thuộc vào môi trường cụ thể của nó - cả về mặt thể chất và di truyền
Đặc điểm ngụy trang tốt của một con hổ lại là rất tồi cho một con gấu Bắc cực, bởi vì những môi trường khác nhau rất cơ bản. Một gen ngụy trang cho hổ sẽ có cơ hội sống sót vô cùng thấp trong môi trường băng giá.
Các gen không chỉ bị ảnh hưởng bởi môi trường vật lý mà còn bởi các gen xung quanh: gồm tất cả các biến thể (alen) của các gen của một loài trong cùng một vốn gen. Vốn gen bao gồm cả các gen chuyên biệt mà chỉ có một số loài có, như gene tạo ra cánh hoặc răng ăn thịt, và cả các gen chung mà những loài khác nhau cùng có.
Sự thành công hay thất bại của một gen - bất kể hữu ích ra sao - phụ thuộc phần lớn vào các gen khác trong cùng một vốn gen. Ví dụ, nếu một gen tạo ra răng ăn thịt sắc nhọn được đưa vào vốn gen của một loài động vật ăn cỏ, gen đó rất có thể sẽ không thành công vì vốn gen này thiếu các gen khác cần thiết cho sự tồn tại của một động vật ăn thịt, như là gen cho phép loài đó tiêu hóa được thịt.
Ở mức độ cá thể, sinh sản hữu tính đòi hỏi sự pha trộn liên tục các gen, do đó mỗi cá nhân của một loài có một bộ alen duy nhất. Một số kết hợp alen tạo ra nhiều lợi thế hơn so với những cách kết hợp khác. Hãy xem xét một loài chim, trong đó có một alen làm tăng sải cánh và một alen kéo dài lông đuôi. Một cá thể chim có cả hai alen này sẽ bay nhanh hơn, trong khi con chim chỉ có một trong số hai alen này có thể sẽ không giữ được thăng bằng và bay chậm hơn. Trong trường hợp này, một alen chỉ thành công nếu có mặt alen kia.
Sinh vật là những cỗ máy được xây dựng nên bởi các nhóm gen hợp tác với nhau chỉ vì chúng cùng chia sẻ một cơ chế sinh sản
Gen ảnh hưởng đến đặc tính của sinh vật mà nó thuộc về - ví dụ như tốc độ, sức mạnh hoặc khả năng ngụy trang. Nếu ảnh hưởng này là thuận lợi, sinh vật đó có nhiều khả năng sinh được con cháu mang những bản sao của gen đó, và do đó gen đó tồn tại.
Tuy nhiên, một gen đơn độc không thể xây dựng nên một cơ thể. Cần phải có hàng chục nghìn gen làm việc cùng nhau để xây dựng nên một cơ thể phức tạp như cơ thể con người. Nhưng nếu các gen về căn bản là vị kỷ, thì tại sao chúng lại chịu hợp tác làm việc như thế?
Câu trả lời là các gen trong một sinh vật chia sẻ cùng nhau một cơ chế sinh sản và do đó có một mục tiêu chung: chúng đều cố gắng tối đa hóa những triển vọng sinh sản và sinh tồn của trứng hoặc tinh trùng của sinh vật đó. Tương tự như vậy, mặc dù một ký sinh trùng như sán dây sống trong cơ thể vật chủ, các gen của sán dây không hợp tác với các gen của vật chủ, bởi vì chúng không chia sẻ một cơ chế sinh sản chung .
Sự hợp tác của các gen tự thân nó biểu hiện dưới dạng một sinh vật hoàn chỉnh: là tổng số của các kiểu hình của các gen đó. Về cơ bản các gen xây dựng nên một cỗ máy - chính là sinh vật - xung quanh bản thân chúng, và cỗ máy này sinh ra con cháu mang các bản sao của chính các gen đó, do đó giúp chúng sống sót.
Trong khi các gen của cùng một cơ thể hợp tác để đảm bảo sự sống còn của chúng, chúng ta không nên mong đợi rằng các cá thể trong cùng một nhóm hợp tác với nhau, bởi vì các gene của chúng không có một đường sinh sản chung. Thay vào đó, dưới sự chỉ đạo của các gen, mỗi cá thể hướng tới việc sinh sản và tồn tại của trứng hoặc tinh trùng của riêng nó và do đó hành động một cách vị kỷ đối với các cá thể khác trong nhóm. Tuy nhiêu điều này không phải luôn luôn đúng, như chúng ta sẽ thấy sau này khi khảo sát hiện tượng vị tha.
Gen lập trình bộ não mà chúng xây dựng nên với những chiến lược hành vi giúp chúng sinh tồn
Có thể phải mất nhiều thế hệ cho kiểu hình của một gen - ví dụ, chân dài hơn - để chứng minh là thành công hơn kiểu hình khác. Tuy nhiên, để tồn tại, các cơ thể mà gen xây dựng nên cần phải có khả năng phản ứng nhanh hơn nhiều với các kích thích môi trường - để ăn, chiến đấu hoặc bỏ chạy chỉ trong vài giây. Để thúc đẩy điều này, các gen xây dựng nên những bộ não cho phép các sinh vật phản ứng nhanh với các yếu tố luôn thay đổi trong môi trường. Chúng ta gọi những phản ứng này là "hành vi."
Môi trường tự nhiên có thể tạo ra vô hạn các tình huống khác nhau, vì vậy các sinh vật không thể chuẩn bị sẵn cách thức phản ứng cho mỗi tình huống. Thay vào đó, phản ứng hành vi được hướng dẫn bởi các "quy tắc", được mã hóa bởi các gen theo cách tương tự như cách một máy tính được lập trình. Ví dụ, hai quy tắc như vậy có thể là (1) khiến một sinh vật xem những thứ có vị ngọt là phần thưởng và (2) lặp lại những hành động dẫn đến phần thưởng đó.
Vấn đề với cách lập trình dựa trên quy tắc như vậy là nó không phải thúc nào cũng thích ứng được với những thay đổi triệt để của môi trường. Ví dụ, việc bị hấp dẫn bởi những thứ có vị ngọt là một hỗ trợ sinh tồn cho những người săn bắn hái lượm đầu tiên, nhưng lại là nguyên nhân của đại dịch béo phì trong một thế giới sẵn đầy năng lượng như ngày nay.
Sinh vật thông minh có thể giảm thiểu tác động tiêu cực của những quy tắc đã lỗi thời như vậy bằng hai chiến lược: học tập và mô phỏng. Học tập nghĩa là thử nghiệm một hành động để tìm hiểu xem đó có phải là một ý tưởng tốt hay không, và sau đó ghi nhớ kết quả; mô phỏng có nghĩa là mô hình hóa các kết quả khả dĩ của một hành động trước khi thực hiện nó, cách này không chỉ tiết kiệm công sức mà còn giúp tránh được những nguy hiểm tiềm tàng. Ví dụ, một sinh vật mà biết trước rằng nhảy xuống một vách đá là một ý tưởng xấu thì sẽ có nhiều khả năng sống sót hơn một sinh vật phải nhảy xuống thử để tìm hiểu.
Sự cạnh tranh giữa những chiến lược dẫn đến một kiểu mẫu (pattern) hành vi ổn định trong một quần thể.
Các thành viên của cùng một loài phải cạnh tranh trực tiếp với nhau về tài nguyên, sự cạnh tranh này phần nhiều sẽ dẫn đến sự đối đầu giữa các cá thể. Những cuộc đối đầu này diễn ra thông qua các chiến lược hành vi khác nhau, từ chạy trốn không chiến đấu cho đến chiến đấu đến chết.
Các chiến lược hành vi, giống như những đặc điểm khác của sinh vật, có thể thay đổi, và một số sẽ trở nên có ích hơn cho sự sinh tồn của sinh vật - và các gen của nó - hơn những chiến lược khác. Theo cùng một cách mà sự thành công của một gen được quyết định bởi môi trường xung quanh, thì sự thành công của chiến lược hành vi của một sinh vật được quyết định bởi cách hành xử của tất cả các sinh vật khác xung quanh khác.
Ví dụ, hãy cho một quần thể chim với ba cách tiếp cận hành vi đối đầu lẫn nhau:
1. "Bồ câu," chạy trốn nếu bị tấn công;
2. "Diều hâu", luôn luôn tấn công và chiến đấu cho đến khi bị thương nặng;
3. "Kẻ đáp trả," hành xử như Bồ câu cho đến khi bị tấn công, sau đó đáp trả như Diều hâu.
Trong quần thể Bồ câu, một Diều hâu xâm lược sẽ rất thành công vì không có Bồ câu nào đứng lên đáp trả. Do đó, các gen Diều hâu tăng lên trong quần thể. Tuy nhiên, khi quần thể trở nên bị Diều hâu thống trị, thì tỷ lệ Bồ câu bắt đầu tăng, vì Diều hâu bị thương thường xuyên hơn trong những cuộc giao tranh dữ dội với những Diều hâu khác, vốn có nhiều trong quần thể. Cả Diều hâu và Bồ câu đều không phải là một chiến lược ổn định về mặt tiến hóa, bởi vì một quần thể của một trong hai nhóm đó đều có thể bị quần thể khác xâm lược.
Những Kẻ đáp trả, mặt khác, không bị thương vì những hành vi gây hấn không cần thiết, nhưng vẫn tự bảo vệ mình nếu cần (không giống như Bồ câu). Vì vậy, trong một quần thể của những Kẻ gây hấn, cả Diều hâu lẫn Bồ câu đều sẽ không thành công; và chiến lược Kẻ đáp trả là ổn định về mặt tiến hóa.
Động lực sinh tồn vị kỷ của gen giải thích hành vi có vẻ vị tha như chăm sóc con cái của cha mẹ
Như đã chỉ ra ở trên, vì các gen kiểm soát hành vi, và các gen là vị kỷ, nên chúng ta có thể kỳ vọng rằng các sinh vật trong cùng một nhóm hành xử ích kỷ với nhau.
Tuy nhiên, có rất nhiều ví dụ về hành vi có vẻ vị tha trong tự nhiên, như những tấm gương cha mẹ tận tâm chăm sóc con cái, như một con chim mẹ giả vờ bị gãy một cánh để dụ một con cáo tránh xa con non của mình. Lòng vị tha ở đây có thể được định nghĩa là hành xử theo một cách làm giảm cơ hội sinh tồn của chính mình vì lợi ích của kẻ khác.
Mâu thuẫn rõ ràng này sẽ biến mất khi xem xét nó dưới ánh sáng của một trong những đặc điểm cơ bản của gen: chúng tồn tại thành nhiều bản sao trong nhiều sinh vật. Do đó, các gen lập trình nên những hành vi có lợi cho các bản sao của chúng trong các sinh vật khác, ngay cả khi phải đánh đổi bằng sinh mạng của sinh vật mang chúng - nhưng chỉ khi điều này tạo ra lợi ích sinh tồn tổng thể lớn hơn cho các gen đó.
Làm thế nào một gen "biết" rằng những sinh vật khác cũng đang mang các bản sao của gen đó? Nó không biết: các gen không có ý thức và không "biết" bất cứ điều gì cả. Nhưng những sinh vật là họ hàng với nhau thì có những bản sao gen giống nhau. Do đó, các gen lập trình cho các sinh vật hỗ trợ cho anh em của chúng đạt được một lợi thế sinh tồn, và đồng thời cũng khiến những hành vi vị tha đó tồn tại được.
Tuy nhiên lòng vị tha không nhất thiết phải được đáp trả lại tương ứng. Bố mẹ và con cái có quan hệ gần gũi như nhau, nhưng cha mẹ cư xử với con cái với lòng vị tha lớn hơn là ngược lại. Lý do là vì để các gen (của cha mẹ) tồn tại được qua một thế hệ, các bậc cha mẹ phải đảm bảo rằng con cái của mình sống sót được đến tuổi sinh sản. Mặt khác, đối với con cái, sự tồn tại và hạnh phúc của cha mẹ có ít liên quan hơn nhiều, do đó mà có sự khác biệt lớn về lòng vị tha.
Các hành vi vị tha qua lại thường thành công, bởi vì chúng làm lợi cho các gen của vật chủ nhiều hơn là những hành vi vị kỷ đơn thuần mang lại
Khi mô tả tương tác giữa các sinh vật, một nguyên tắc hữu ích là ý tưởng của "trò chơi" tổng-bằng-không hoặc không-bằng-không .Về cơ bản, tình huống tổng-bằng-không là một tình huống mà trong đó một bên chiến thắng và bên kia thua; ví dụ, trong trường hợp một con báo đuổi theo một con linh dương, hoặc là linh dương bị chết hoặc con báo bị chết đói.
Ngược lại, trò chơi tổng-không-bằng-không là một trò chơi mà trong đó cả hai 'bên' đều chiến đấu lại một "ngân hàng" đang nắm giữ nguồn tài nguyên. Một bên chiến thắng không có nghĩa là bên kia đã thua. Những người chơi có thể đâm sau lưng nhau để chiếm được một phần lớn hơn từ nguồn tài nguyên của "ngân hàng", nhưng, tùy vào các quy tắc, họ cũng có thể hợp tác lại để cùng chiến thắng.
Trong tự nhiên, các sinh vật thường cạnh tranh với nhau để giành giật nguồn tài nguyên trong môi trường. Mặc dù có rất nhiều tình huống mà sự cạnh tranh là một trò chơi tổng-bằng-không, chẳng hạn như trong trường hợp của báo cheetah và linh dương, nhưng trong những trường hợp khác, các sinh vật có thể hợp tác với nhau, hoặc với các thành viên của cùng một loài hoặc thậm chí là khác loài.
Ví dụ, kiến "vắt sữa" những con côn trùng gọi là rệp để lấy những chất tiết ngọt ngào mà rệp tạo ra. Dường như trong hoàn cảnh này, rệp là kẻ bị bóc lột, nhưng trong thực tế, chúng được bảo vệ đáng kể khỏi những kẻ săn mồi vì có lũ kiến sẵn sàng chiến đấu bao quanh bảo vệ chúng. Đôi khi những con kiến thậm chí còn nuôi lớn và bảo vệ những con rệp con trong tổ kiến Do đó, sự hợp tác này có lợi cho sự tồn tại của các gen của cả rệp và kiến. Kết quả cuối cùng là tỉ lệ sinh tồn tăng - thỏa mãn một động cơ vị kỷ, nhưng con đường đạt được điều đó lại là lòng vị tha qua lại.
Văn hóa của con người cũng là đối tượng của sự tiến hóa, và đơn vị cơ bản của sự tiến hóa này là meme.
Một trong những đặc điểm đặc biệt nhất của con người là văn hóa: là những khía cạnh trong cuộc sống chúng ta mà không phải là bản năng cũng không hoàn toàn phục vụ sự sinh tồn, ví dụ như ngôn ngữ, trang phục, ẩm thực, nghi lễ, phong tục và nghệ thuật. Mặc dù tâm lý và những mối quan tâm sơ đẳng của con người có thể truy dấu tới được những lợi ích sống còn của lòng vị tha qua lại và giúp đỡ người thân, nhưng vẫn không đủ để giải thích cho sự phức tạp và đa dạng của văn hóa.
Thay vào đó, văn hóa có thể được coi là tương đương với một vốn gen, và đơn vị cơ bản của tiến hóa văn hóa là một meme thay vì một gen. Một meme là mảnh nhỏ nhất của văn hóa có tiềm năng bất tử, ví dụ, một giai điệu, một ý tưởng hoặc một clip mèo khiêu vũ trên YouTube. Các phương pháp truyền tải chính là các phương pháp giao tiếp của con người: lời nói, văn bản, Internet, v.v.
Giống như gen, các meme cũng phải cạnh tranh với nhau. Một số đối đầu trực tiếp với nhau - ví dụ, thuyết tiến hóa và sáng tạo luận - nhưng tất cả cạnh tranh với nhau để đạt được sự chú ý và ghi nhớ của con người. Theo cùng một cách mà gen hợp tác để tạo thành các sinh vật phức tạp, các meme cũng hình thành nên các thực thể phức tạp, ví dụ, Giáo Hội Công Giáo là một tập hợp các ý tưởng, nghi lễ, trang phục và các kiến trúc xung quanh một meme trung tâm là Thiên Chúa toàn năng.
Tách biệt văn hóa khỏi sinh học giúp giải thích một số biểu hiện khác thường hơn của nhân loại, chẳng hạn như đời sống độc thân vốn đi ngược lại với các mệnh lệnh sinh học. Nếu văn hóa tự bản thân nó là một hệ thống tiến hóa với những thể tự sao riêng, thì những thể tự sao này chỉ cần tồn tại trong hệ thống đó. Chúng không nhất thiết phải chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài của vốn meme, chẳng hạn như sự sinh tồn sinh học. Giống như những kẻ tương đương là gen, sự thành công của các meme được quyết định bởi môi trường của chúng - từ đó chúng ta có thể kết luận rằng Internet là một môi trường khuyến khích các clip mèo nhảy múa!
Tầm nhìn xa có ý thức của con người có thể giúp chúng ta vượt qua được những nhược điểm của tính vị kỷ mang tính sinh học của gen
Các mô hình chiến lược hành vi cho thấy rằng các quần thể có xu hướng bằng lòng với một chiến lược ổn định, và rằng những quần thể tham gia vào một chiến lược vị tha qua lại thường sinh tồn tốt, ngay cả khi mỗi cá nhân được thúc đẩy bởi những mối quan tâm của gen.
Nhưng trong một số trường hợp, có thể đạt được một giải pháp thậm chí còn tối ưu hơn cho tất cả mọi người bằng cách quên đi những lợi ích sinh tồn trước mắt của các gen. Hãy xem xét một quần thể có hai loài với hai chiến lược đối đầu khác nhau: Diều hâu, những người luôn luôn tấn công đối đầu và sẽ chiến đấu cho đến chết hoặc bị thương nặng; và Bồ câu, những người sẽ chạy trốn nếu bị tấn công. Diều hâu sẽ luôn luôn giành chiến thắng chống lại Bồ câu ở mức cá thể, nhưng về lâu dài chiến lược của Diều hâu thực ra lại ít có lợi vì những chấn thương mà chúng phải chịu khi chiến đấu với các Diều hâu khác. Giải pháp có ích nhất cho tất cả các cá thể là 'âm mưu của Bồ câu", trong đó mọi cá thể trong quần thể đồng ý hành xử như Bồ câu, từ bỏ những lợi ích ngắn hạn khi hành xử như Diều hâu để gặt hái những lợi ích lâu dài của đời sống hòa bình và tránh được những chấn thương nghiêm trọng và cái chết.
Gen không có ý thức và không có tầm nhìn xa, vì vậy chúng sẽ không bao giờ có thể tham gia vào "âm mưu của Bồ câu", ngay cả khi điều đó sẽ có lợi rất lớn cho chúng.
Tuy nhiên, con người có khả năng nhìn xa trông rộng một cách có ý thức. Văn hóa của chúng ta, nếu nghĩ về phương diện các meme, đã tách biệt chính mình với các mệnh lệnh sinh học. Có thể bản chất hay gen của chúng ta không vị tha, nhưng chúng ta có thể sử dụng tầm nhìn xa của mình để chống lại sự vị kỷ của gen, và ít nhất là để tham gia vào "âm mưu của Bồ câu" vì những lợi ích tương lai của chúng ta. Chúng ta thậm chí có thể đạt được lòng vị tha vốn không tồn tại trong tự nhiên.
Tóm tắt cuối cùng
Thông điệp chính trong cuốn sách này là:
Tiến hóa xảy ra nhờ tác động của chọn lọc tự nhiên trên gen, chứ không phải trên các cá thể hay loài. Gen là vị kỷ theo định nghĩa, theo đó những gen mà thúc đẩy sự tồn tại của mình bằng cái giá của những gen khác có xu hướng thành công hơn. Tất cả các hành vi động vật đều có thể được truy gốc tới sự vị kỷ do gen chịu trách nhiệm.
Cuốn sách này trả lời các câu hỏi:
Tiến hóa xảy ra qua những quá trình nào, và gen đóng vai trò trung tâm ra sao?
· Tiến hóa được thúc đẩy bởi những khả năng khác nhau và nguồn tài nguyên hạn chế.
· Đơn vị cơ bản của tiến hóa là gen, bởi vì nó có thể tồn tại thành nhiều bản sao và do đó là gần như là bất tử.
· Gen là vị kỷ theo định nghĩa: thành công sinh tồn của chúng đi kèm với cái giá của những gen khác.
· Kiểu hình của một gen - là cách biểu hiện của gen trong môi trường - quyết định sự tồn tại của nó.
· Sự thành công sinh tồn của một gen phụ thuộc vào môi trường cụ thể của nó - cả về mặt thể chất và di truyền.
Tính vị kỷ ở mức độ gen ảnh hưởng tới hành vi ở cấp sinh vật như thế nào?
· Sinh vật là những cỗ máy được xây dựng bởi các nhóm gen hợp tác với nhau chỉ vì chúng chia sẻ một cơ chế sinh sản chung.
· Gen lập trình bộ não mà chúng xây dựng nên với những chiến lược hành vi giúp chúng sinh tồn.
· Sự cạnh tranh giữa các chiến lược tạo ra một mẫu hình (pattern) hành vi ổn định trong một quần thể.
· Các hành vi vị tha qua lại thường thành công, bởi vì chúng mang lại nhiều lợi ích cho các gen của vật chủ hơn là những hành vi hoàn toàn vị kỷ.
Lý thuyết này có ứng dụng gì cho hành vi và phát triển văn hóa của con người?
· Văn hóa của con người cũng là đối tượng của tiến hóa, và đơn vị cơ bản của sự tiến hóa này là meme.
· Tầm nhìn xa có ý thức của con người có thể giúp chúng ta vượt qua những nhược điểm của sự vị kỷ mang tính sinh học của gen.
có ai cho mình xin bản mềm cuốn này với.
ReplyDelete